Lịch sử Vô_tận

Các nền văn hóa cổ đại có nhiều ý tưởng khác nhau về bản chất của vô cực. Người Ấn ĐộHy Lạp cổ đại không định nghĩa sự vô hạn trong chủ nghĩa hình thức chính xác như toán học hiện đại, và thay vào đó tiếp cận vô cực như một khái niệm triết học.

Hy Lạp cổ đại

Ý tưởng đầu tiên được ghi lại về sự vô hạn đến từ Anaximander, một triết gia Hy Lạp tiền Socrates sống ở Miletus. Ông đã sử dụng từ apeiron có nghĩa là vô hạn hoặc vô tận.[3] Tuy nhiên, các tài khoản chứng thực sớm nhất về vô cực toán học đến từ Zeno xứ Elea (sinh ra k. 490 BCE ), một triết gia Hy Lạp tiền Socrates ở miền nam nước Ý và là thành viên của trường phái Elea do Parmenides thành lập. Aristotle gọi ông là người phát minh ra phép biện chứng.[4][5] Ông nổi tiếng với những nghịch lý của mình,[4] được Bertrand Russell mô tả là "vô cùng tinh tế và sâu sắc".[6]

Theo quan điểm truyền thống của Aristotle, người Hy Lạp thời Hellenic nói chung thường thích phân biệt vô cực tiềm năng với vô cực thực tế; ví dụ, thay vì nói rằng có vô số các số nguyên tố, Euclid thay vào đó thích nói rằng: có nhiều số nguyên tố hơn trong bất kỳ tập hợp các số nguyên tố nhất định nào.[7]

Ấn Độ cổ đại

Cuốn sách Jain về toán học Surya Prajnapti (thế kỷ thứ 4 đến thứ 3 TCN) phân loại tất cả các số thành ba tập hợp: đếm được, vô số, và vô hạn. Mỗi trong số này được chia thành ba loại:[8]

  • Vô số: thấp nhất, trung bình và cao nhất
  • Không đếm được: gần như không đếm được, thực sự không đếm được, và vô số không đếm được
  • Vô hạn: gần như vô hạn, thực sự vô hạn, vô hạn vô hạn

Trong tác phẩm này, hai loại số vô hạn cơ bản được phân biệt. Trên cả cơ sở vật chất và bản thể học, một sự khác biệt đã được tạo ra giữa asaṃkhyāta ("vô số, không đếm được") và ananta ("vô tận, không giới hạn"), giữa loại vô số bị giới hạn cứng nhắc và loại vô số giới hạn lỏng lẻo.[9]

Thế kỷ 17

Các nhà toán học châu Âu bắt đầu sử dụng các số và biểu thức vô hạn theo kiểu có hệ thống trong thế kỷ 17. Năm 1655, John Wallis lần đầu tiên sử dụng ký hiệu ∞ {\displaystyle \infty } cho một số như vậy trong De partibus conicis của mình và khai thác nó trong các tính toán diện tích bằng cách chia vùng thành các dải có chiều rộng vô hạn theo thứ tự 1 ∞ . {\displaystyle {\tfrac {1}{\infty }}.} [10] Nhưng trong Arithmetica infinitorum (1655), ông chỉ ra chuỗi vô hạn, các sản phẩm vô hạn và các phân số tiếp tục vô hạn bằng cách viết ra một vài thuật ngữ hoặc yếu tố và sau đó nối thêm "& c." Ví dụ: "1, 6, 12, 18, 24, & c." [11]

Năm 1699, Isaac Newton đã viết về các phương trình với thuật ngữ vô hạn trong tác phẩm De analysi per aequationes numero terminorum infinitas.[12]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Vô_tận http://www.britannica.com/EBchecked/topic/287662 http://www.numberphile.com/videos/countable_infini... http://dictionary.of-the-infinite.com http://www.earlham.edu/~peters/writing/infapp.htm http://www.earlham.edu/~peters/writing/infinity.ht... http://muse.jhu.edu/journals/perspectives_on_scien... http://op.niscair.res.in/index.php/ALIS/article/vi... http://d-nb.info/gnd/4136067-9 http://id.ndl.go.jp/auth/ndlna/00576691 //www.worldcat.org/issn/1063-6145